Arsenobetaine hợp chất phổ biến trong hệ sinh vật biển; nó tương đối không độc hại như một số hợp chất arsen hữu cơ khác như dimethylarsin và trimethylarsin.[5]
Arsenobetaine được biết đến từ năm 1920 nhưng đến năm 1977 cấu trúc hóa học của nó mới được biết rõ.[6]
Tham khảo
^Maher, B. (2005). “Foreword: Research Front — Arsenic Biogeochemistry”. Environmental Chemistry. 2 (3): 139–140. doi:10.1071/EN05063.
^Francesconi, K. A. (2005). “Current Perspectives in Arsenic Environmental and Biological Research”. Environmental Chemistry. 2 (3): 141–145. doi:10.1071/EN05042.
^Adair, B. M.; Waters, S. B.; Devesa, V.; Drobna, Z.; Styblo, M.; Thomas, D. J. (2005). “Commonalities in Metabolism of Arsenicals”. Environmental Chemistry. 2 (3): 161–166. doi:10.1071/EN05054.
^Ng, J. C. (2005). “Environmental Contamination of Arsenic and its Toxicological Impact on Humans”. Environmental Chemistry. 2 (3): 146–160. doi:10.1071/EN05062.
^Bhattacharya, P.; Welch, A. H.; Stollenwerk, K. G.; McLaughlin, M. J.; Bundschuh, J.; Panaullah, G. (2007). “Arsenic in the Environment: Biology and Chemistry”. Science of the Total Environment. 379 (2–3): 109–120. doi:10.1016/j.scitotenv.2007.02.037. PMID17434206.
^Edmonds, J. S.; Francesconi, K. A.; Cannon, J. R.; Raston, C. L.; Skelton, B. W.; White, A. H. (1977). “Isolation, Crystal Structure and Synthesis of Arsenobetaine, the Arsenical Constituent of the Western Rock Lobster Panulirus longipes cygnus George”. Tetrahedron Letters. 18 (18): 1543–1546. doi:10.1016/S0040-4039(01)93098-9.