1000 Forms of Fear

1000 Forms of Fear
Album phòng thu của Sia
Phát hành4 tháng 7 năm 2014 (2014-07-04)
Thu âm2013–2014
Phòng thu
Thể loạiElectropop
Thời lượng48:28
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự album của Sia
Best Of...
(2012)
1000 Forms of Fear
(2014)
This Is Acting
(2016)
Đĩa đơn từ 1000 Forms of Fear
  1. "Chandelier"
    Phát hành: 17 tháng 3 năm 2014
  2. "Big Girls Cry"
    Phát hành: 25 tháng 6 năm 2014
  3. "Elastic Heart"
    Phát hành: 9 tháng 1 năm 2015
  4. "Fire Meet Gasoline"
    Phát hành: 19 tháng 7 năm 2015

1000 Forms of Fearalbum phòng thu thứ sáu của nữ ca sĩ người Úc Sia. Album được phát hành vào ngày 4 tháng 7 năm 2014 thông qua các hãng đĩa Monkey Puzzle và RCA Records trên toàn cầu và Inertia ở Úc. Dòng nhạc chủ đạo của album là electropop, nhưng vẫn mang âm hưởng từ những thể loại reggaehip hop. Phần ca từ của những ca khúc trong album tập trung vào tình cảnh nữ ca sĩ phải sống chật vật với nghiện ngậprối loạn lưỡng cực.

Album bao gồm bốn đĩa đơn. Ca khúc đầu tiên mang tên "Chandelier", được phát hành vào tháng 3 năm 2014, sau này trở thành một đĩa đơn xếp ở vị trí top 10 trên toàn cầu. Vị trí xếp hạng cao nhất của đĩa đơn trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 là vị trí thứ tám, giúp "Chandelier" trở thành ca khúc đầu tiên của Sia với vai trò hát chính lọt vào bảng xếp hạng này. Bài hát thứ hai, "Big Girls Cry", ra mắt vào tháng 6 năm 2014. Ca khúc thứ ba, phiên bản đơn ca do Sia trình bày của đĩa đơn "Elastic Heart", trước đó từng là một nhạc phẩm hợp tác với nam ca sĩ The Weeknd và nhà sản xuất thu âm Diplo, được phát hành vào ngày 9 tháng 1 năm 2015, đã vươn lên top 20 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100. "Fire Meet Gasoline", phát hành vào ngày 19 tháng 6 năm 2015, được chọn làm đĩa đơn thứ tư và cuối cùng của album. Video âm nhạc chính thức của "Chandelier" đã có hơn 2,4 tỉ lượt xem tính đến tháng 12 năm 2021, còn video âm nhạc của "Elastic Heart" đã đạt được hơn 1,1 tỉ lượt xem.

1000 Forms of Fear nhận được nhiều ý kiến đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Có nhiều lời khen ngợi dành cho giọng hát của Sia cũng như phần nội dung ý nghĩa của lời bài hát trong album. Album ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 của Mỹ với doanh số bán 52.000 bản trong tuần đầu phát hành. Album cũng đứng đầu trên các bảng xếp hạng tại Úc và Canada, và vươn lên top 5 của các bảng xếp hạng âm nhạc tại Đan Mạch, New Zealand, Na Uy, Thụy Điển, Thụy Sĩ và Anh Quốc. Tính đến ngày 26 tháng 10 năm 2015, Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ đã cấp chứng nhận đĩa Vàng cho album với hơn 500.000 đơn vị tương đương được bán ra tại quốc gia này. Tính đến tháng 1 năm 2016, hơn 1 triệu bản album đã được bán ra trên toàn cầu.[1]

Để quảng bá cho album, Sia đã xuất hiện trên nhiều chương trình truyền hình như The Ellen DeGeneres ShowJimmy Kimmel Live!. Tại những buổi trình diễn trên những chương trình này, Sia đã mời Maddie Ziegler, nữ vũ công trẻ đã từng xuất hiện trong ba video âm nhạc của album, đóng vai "bản ngã thay thế" của nữ ca sĩ trên sân khấu, vào các năm 2014 và 2015. Album đã mang về cho Sia ba giải Âm nhạc ARIA vào năm 2014, đồng thời được xếp vào danh sách một trong những album xuất sắc nhất của năm 2014 trên một số báo và tạp chí, gồm The Boston GlobeRolling Stone. "Chandelier" đã nhận được bốn đề cử tại giải Grammy cho những hạng mục Bài hát của năm, Thu âm của năm, Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhấtVideo âm nhạc xuất sắc nhất.

Bối cảnh

Một người bạn của tôi vừa mới sinh con. Tôi hỏi cô ấy cảm giác lúc ấy như thế nào và cô ấy trả lời: 'Ồ, cậu biết đấy, như mọi khi, nó giống như cả nghìn sắc thái sợ hãi kết hợp lại vậy.' Tôi trả lời: 'Vậy thì mình lấy cái tên đó đặt cho album của mình nhé?'

 —Sia giải thích ý nghĩa của tiêu đề album[2]

Năm 2010, Sia phát hành album phòng thu thứ năm của cô, We Are Born. Album xếp hạng cao nhất ở vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng ARIA Albums Chart và được chứng nhận vàng bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.[3] Tiếp nối thành công của We Are Born, Sia quyết định rời khỏi sự nghiệp của một nghệ sĩ thu âm mà trở thành một nhà viết nhạc. Cô sáng tác ca khúc "Titanium" cho nữ ca sĩ người Mỹ Alicia Keys, nhưng sau này nó lại được gửi đến David Guetta. Ông đã ghép giọng demo của Sia vào ca khúc và phát hành nó dưới dạng đĩa đơn vào năm 2011.[4] "Titanium" đã đạt được nhiều thành công về phương diện thương mại trên toàn thế giới, lọt vào top 5 trên các bảng xếp hạng âm nhạc tại Mỹ, Úc và nhiều nước thuộc châu Âu.[5] Tuy nhiên, Sia lại tỏ vẻ không hài lòng với thành công vang dội của đĩa đơn:

Từ năm 2011 đến năm 2013, Sia được nhiều người biết đến hơn với việc sáng tác nhiều ca khúc cho những nghệ sĩ khác như Beyoncé, Flo Rida, Christina AguileraRihanna.[6][7] Vào thời điểm tháng 9 năm 2013, Sia bắt đầu thu âm những bài hát mới tại phòng thu âm tại gia của cô với hi vọng sẽ phát hành một album mới vào mùa xuân năm sau.[8] Cuối năm đó, một nhóm những đại diện đến từ hãng đĩa RCA Records kể cả giám đốc điều hành hãng đĩa Peter Edge đã gặp nữ ca sĩ và trao đổi về việc ký kết một hợp đồng thu âm đối với album và nữ ca sĩ đã đồng ý. Nội dung của bản hợp đồng ghi rõ nữ ca sĩ không bắt buộc phải lưu diễn hay xuất hiện trên báo chí để quảng bá album.[7] Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí NME vào tháng 2 năm 2015, nữ ca sĩ tiết lộ rằng việc phát hành album 1000 Forms of Fear là nghĩa vụ bắt buộc theo hợp đồng:

Sáng tác

1000 Forms of Fear chủ yếu theo thể loại nhạc electropop, với chút cảm hứng từ dòng nhạc reggaehip hop.[10] Album mở đầu bằng đĩa đơn "Chandelier", một bài hát thuộc thể loại nhạc electropop với giai điệu mang âm hưởng reggae.[11][12] Về ý nghĩa, "Chandelier" đề cập tới "cuộc sống xa hoa mà mệt mỏi của một cô nàng tiệc tùng."[13] Đĩa đơn kế tiếp, "Big Girls Cry", từng được so sánh với ca khúc "Hands Clean" của nữ ca sĩ Alanis Morissette.[14] "Burn The Pages" là lời động viên mà Sia muốn gửi gắm tới một người bạn của mình: "Bạn rối bời như chiếc nút thòng lọng / Được bện chặt bởi một kẻ say vừa mới chích ma túy đá."[a][15] "Eye of the Needle" là một bản piano ballad "hành khúc",[16] trong khi "Hostage" là một ca khúc theo dòng nhạc new wave popska với một giọng ca "vỡ tan như một ca sĩ nhạc punk."[10][17] Bài hát thứ sáu của album mang tên "Straight for the Knife", được đệm bởi nhiều loại nhạc cụ dây với phần ca từ đề cập tới một mối quan hệ đầy giông tố: "Rồi ai đó sẽ thấy tôi đu đưa trên xà nhà / Tôi cheo leo trong những lời nói của anh."[b][10][14]

Trong ca khúc "Fair Game", Sia đã hát: "Tôi chưa bao giờ chơi một trò chơi sòng phẳng / Vì tôi luôn là người có quyền quyết định mọi thứ."[c][14][18] Nó là một bài hát tối giản và đậm âm thanh đàn dây kề về niềm khao khát có được người tình tương xứng của một người phụ nữ.[10] Phiên bản đơn ca của đĩa đơn "Elastic Heart", trước đây là một nhạc phẩm mà Sia hợp tác với nam ca sĩ The Weeknd và nhà sản xuất thu âm Diplo, là một bài hát nhạc trap.[19] Bài hát nói về một "sức mạnh áp đảo mà Sia cần có để thuyết phục chính mình rằng cuộc đời thật đáng giá bao nhiêu sau khi vừa mới thoát khỏi một mối quan hệ đổ nát."[20] Bài hát thứ chín, "Free the Animal" lại đề cập đến chuyện một người phụ nữ "mường tượng tình cảnh mình bị giết một cách tàn bạo và đang trong tình trạng bị bạo dâm" qua những câu hát: "Hãy làm em nổ tung / Hãy bắn em đi như đang bắn một quả đại bác / Hãy nghiền nát em / Hãy giết em như giết một con thú."[d][21] Bài hát thứ 10, "Fire Meet Gasoline", từng được Harriet Gibsone từ báo The Guardian so sánh với bài hát "Halo" do nữ ca sĩ Beyoncé trình bày.[22] Về phần "Cellophane", đây là một bài hát electropop[23] mà trong đó Sia đã ví mình như "một cái thùng chứa đầy sự khổ đau."[24] Album kết thúc bằng ca khúc "Dressed in Black", được Heather Phares từ trang web AllMusic miêu tả là một bản ballad "kịch tính và có chiều sâu hơn tất cả những bản ballad cô từng viết cho nghệ sĩ khác."[25]

Đĩa đơn

"Chandelier" là đĩa đơn đầu tiên của 1000 Forms of Fear.[26] Bài hát được phát hành dưới định dạng tải kỹ thuật số trên iTunes Store vào ngày 17 tháng 3 năm 2014.[27] Video âm nhạc cho bài hát ra mắt vào ngày 6 tháng 5 năm 2014[28] với hơn 1,8 tỉ lượt xem trên YouTube tính tới tháng 7 năm 2018.[29] Video có sự xuất hiện của nữ vũ công trẻ Maddie Ziegler trong bộ tóc giả màu vàng giống kiểu tóc của Sia.[30] Đĩa đơn đã gặt hái nhiều thành công về mặt thương mại, từng đạt vị trí thứ tám, là vị trí cao nhất của đĩa đơn, trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ, trở thành đĩa đơn đầu tiên của Sia với vai trò là ca sĩ hát chính có mặt trên bảng xếp hạng này.[31] Đĩa đơn còn lọt vào top 5 của các bảng xếp hạng thu âm tại những nước thuộc châu Âu và châu Đại Dương, gồm Flanders (Bỉ) và Pháp (vị trí quán quân), Úc và Na Uy (thứ hai), New Zealand (thứ ba), Anh Quốc (thứ sáu) và Slovakia (thứ năm).[32][33] Đĩa đơn được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc cấp chứng nhận 3× đĩa Bạch kim và được tổ chức Recorded Music NZ chứng nhận Vàng.[34][35]

Đĩa đơn "Big Girls Cry" được phát hành dưới dạng tải kỹ thuật số vào ngày 25 tháng 6.[36] Ngày 2 tháng 4 năm 2015, video âm nhạc được phát hành. Ziegler tiếp tục thủ vai chính, đầu đội một mái tóc giả màu vàng, đứng trước một tấm phông làm nền màu đen, nhăn nhó khuôn mặt và sử dụng bàn tay của mình để tạo ra nhiều biểu cảm.[37]

Đĩa đơn thứ ba của album, "Elastic Heart", được phát hành vào tháng 1 năm 2015.[38] Video âm nhạc của bài hát được phát hành vào ngày 7 tháng 1 năm 2015 với sự góp mặt của Ziegler trong một mái tóc giả màu vàng như lần trước và nhảy múa trong một cái lồng chim khổng lồ cùng với nam diễn viên Shia LaBeouf.[39] Tính đến tháng 7 năm 2018, video đã có hơn 950 triệu lượt xem trên YouTube.[40] "Elastic Heart" từng đạt vị trí thứ 17 trên Billboard Hot 100 và được xếp hạng trong top 5 trên bảng xếp hạng âm nhạc tại một vài quốc gia, bao gồm Úc và Ireland.[31][32][41]

"Fire Meet Gasoline" được chính thức phát hành với vai trò là đĩa đơn thứ tư và là đĩa đơn cuối cùng trích từ album tại Đức vào ngày 19 tháng 6 năm 2015. Video âm nhạc cho bài hát ra mắt vào ngày 23 tháng 4 năm 2015 trên YouTube. Video là đoạn quảng cáo cho dòng đồ lót của nữ người mẫu, diễn viên Heidi Klum và do Klum cùng nam diễn viên Pedro Pascal của bộ phim truyền hình Trò chơi vương quyền thủ vai chính.[42]

Đĩa đơn quảng bá

Đĩa đơn quảng bá "Eye of the Needle" được phát hành dưới dạng tải kỹ thuật số vào ngày 3 tháng 6 năm 2014.[43]

Quảng bá

Tôi đã đề ra chủ đề chính còn khái quát hơn cho album và bằng một cách nào đó tôi sẽ trình bày cho mọi người biết: Tôi không muốn trở nên nổi tiếng. Nếu Amy Winehouse nổi tiếng với kiểu tóc beehive thì tôi đoán của tôi sẽ là kiểu bob vàng kim. Tôi đã nghĩ: "Nếu đó là kiểu tóc thương hiệu của mình thì tại sao mình không sử dụng khuôn mặt của mình để kinh doanh một thứ gì đó đây nhỉ?", vì vậy nên dự định của tôi là sẽ sáng tạo ra một thương hiệu kiểu tóc bob màu vàng kim. Trong suốt thời gian quảng bá cho album thì tôi sẽ cho một người khác đội mái tóc giả kiểu bob màu vàng kim;họ có thể hát nhép theo tôi trong khi tôi đang biểu diễn hoặc thể hiện một màn vũ đạo hoặc trình diễn bằng một loại hình nghệ thuật sân khấu nào đó trong khi tôi quay lưng về phía khán giả và về phía Ellen.

 — Sia chia sẻ về chiến dịch quảng bá album[44]

Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Dazed & Confused, Sia giải thích rằng cô quyết định không để lộ khuôn mặt trong những video âm nhạc và không thường xuyên xuất hiện trên báo chí trong chiến dịch quảng bá 1000 Forms of Fear. Thay vào đó, cô sẽ tập trung vào việc tạo ra nghệ thuật thị giác thông qua các video âm nhạc.[44] Suốt khoảng thời gian quảng bá, Sia mời nữ vũ công trẻ Maddie Ziegler vào vai hình tượng nhân vật của nữ ca sĩ trên sân khấu trong khi biểu diễn những ca khúc nằm trong album trong tư thế quay lưng lại về phía máy quay và khán giả.[45] Ngày 19 tháng 5 năm 2014, Sia biểu diễn trực tiếp bài hát "Chandelier" trên chương trình The Ellen DeGeneres Show. Trong buổi biểu diễn, Ziegler tái hiện lại màn vũ đạo trong video âm nhạc trong khi Sia đang đứng úp mặt vào tường và ngân vang ca khúc.[46] Sia còn trình diễn ca khúc trên chương trình Late Night with Seth Meyers vào ngày 9 tháng 6 năm 2014, với phần trình diễn vũ đạo do ngôi sao Lena Dunham từ phim truyền hình Girls đảm nhiệm.[47] Ngày 4 tháng 7 năm 2014, Sia xuất hiện trên chương trình Jimmy Kimmel Live! để biểu diễn các ca khúc "Chandelier", "Big Girls Cry" và "Elastic Heart".[48]

Ngày 30 tháng 7 năm 2014, Sia biểu diễn ba bài hát trên chương trình SoundClash của kênh VH1.[49] Ngày 17 tháng 1 năm 2015, Sia biểu diễn "Chandelier" và "Elastic Heart" trên chương trình Saturday Night Live.[50] Ngày 8 tháng 2 năm 2015, Sia, Ziegler cùng với nữ diễn viên Kristen Wiig biểu diễn ca khúc "Chandelier" trong một căn phòng được bố trí giống như bối cảnh trong video tại giải Grammy năm 2015.[51]

Đánh giá chuyên môn

Đánh giá chuyên môn
Điểm trung bình
NguồnĐánh giá
AnyDecentMusic?7.1/10[52]
Metacritic76/100[53]
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
AllMusic[25]
The A.V. ClubC[10]
The Daily Telegraph[23]
The Guardian[22]
The Independent[54]
Los Angeles Times[24]
The Observer[17]
Rolling Stone[19]
Slant Magazine[15]
Spin8/10[16]

1000 Forms of Fear đã nhận được nhiều ý kiến đánh giá tích cực từ nhiều nhà phê bình. Trang web Metacritic cho album số điểm 76 trên 100 dựa trên điểm số trung bình của 28 nhà phê bình âm nhạc.[53] Nhà báo Sarah Rodman từ tờ The Boston Globe đã ví album như "một quả bom",[55] trong khi Heather Phares từ trang web AllMusic lại gọi album là "âm thanh khi [Sia] tự chủ thành công của mình."[25] Đến từ báo The Daily Telegraph, Helen Brown đã khen ngợi phần sản xuất cũng như phần ca từ "truyền cảm hứng" của album, thể hiện rất rõ tình cảnh Sia phải chống chọi với tình trạng nghiện ngậprối loạn lưỡng cực.[23] Julianne Escobedo Shepherd từ tạp chí Rolling Stone viết nhận xét đơn giản là "cô hát như một siêu sao âm nhạc",[19] trong khi Maura Johnson của tạp chí Spin lại ví 1000 Forms of Fear như một "dải quang phổ cảm xúc của con người."[16] Viết cho Thời báo New York, Jon Pareles tán dương "chất đam mê điên dại, thiếu quyết đoán" mà album đã lột tả.[14]

Đại diện cho tạp chí Slant Magazine, Annie Galvin cho rằng 1000 Forms of Fear "như một con tàu lèo lái nữ ca sĩ khỏi sự vô danh để bước vào tầng lớp của những ngôi sao nổi bật hơn, những người đã thống trị thế giới nhạc pop, nhờ một phần vào kĩ năng viết nhạc tuyệt đỉnh của nữ ca sĩ."[15] Đến từ báo Los Angeles Times, Mikael Wood đã dành lời khen ngợi cho phần giọng hát của Sia cũng như phần sản xuất âm nhạc do Greg Kurstin đảm nhiệm.[24] Cũng với ý kiến tương tự, Adam Markovitz đến từ tạp chí Entertainment Weekly đã khen giọng của Sia bằng cụm từ "đáng kinh ngạc" và cho album điểm B.[56]

Với một bài đánh giá ít tích cực hơn, Harriet Gibsone từ The Guardian đã chia sẻ rằng album này là một thứ không thể chê vào đâu được và mang âm hưởng của dòng nhạc đương đại, vì thế nên "tầm ảnh hưởng của nó có thể sẽ phai nhòa theo thời gian."[22] Nhà phê bình Annie Zaleski từ website The A.V. Club đã nhận xét: "1000 Forms of Fear với những giai điệu và nét đẹp đương đại đã biến Sia trở thành một ngôi sao theo cách của riêng cô ấy, nhưng bù lại những xúc cảm riêng tư và tính cách thất thường của nữ ca sĩ sẽ bị tổn hại nhiều."[10]

Giải thưởng

Sarah Rodman từ The Boston Globe đã gọi 1000 Forms of Fear là "album gây ngạc nhiên nhất" của năm 2014.[57] Album xếp vị trí thứ 13 trên danh sách 15 album dẫn đầu của năm 2014 của trang web Digital Spy.[58] John Pareles từ tờ The New York Times đã xếp album ở vị trí thứ 5 trong danh sách album yêu thích trong năm của cô.[59] Album còn lọt vào danh sách những album xuất sắc nhất của tạp chí Slant Magazine (đứng thứ 13)[60] và tờ The Daily Telegraph (thứ 44).[61] Rolling Stone đã xếp album ở vị trí thứ 20 trong danh sách 20 album nhạc pop xuất sắc nhất của năm 2014 của tạp chí.[62] Tại lễ trao giải Âm nhạc ARIA năm 2014, Sia đã đoạt giải Album của năm, Nữ nghệ sĩ xuất sắc nhất, Đĩa thu âm nhạc pop xuất sắc nhất với album 1000 Forms of Fear.[63] Đĩa đơn đầu tiên của album "Chandelier" đã từng được đề cử bốn hạng mục Giải Grammy bao gồm Bài hát của năm, Thu âm của năm, Trình diễn đơn ca pop xuất sắc nhấtVideo âm nhạc xuất sắc nhất tại giải Grammy lần thứ 57.[64]

Diễn biến thương mại

1000 Forms of Fear ra mắt ở vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard 200 với doanh số 52.000 bản trong tuần đầu tiên phát hành. Đây là số liệu thấp nhất đối với một album quán quân trên bảng xếp hạng này trong gần hai năm trở lại kể từ 2012.[65] Clem Bastow từ tờ The Guardian nhận xét về thành công của album tại Mỹ, "Các nghệ sĩ người Úc thường sẽ đạt được nhiều thành công hơn trên bảng xếp hạng đĩa đơn Billboard Hot 100, nhưng dù có như vậy đi nữa, thì Sia lại nằm trong số hiếm."[66] Đại diện cho tờ The Sydney Morning Herald, George Palathingal cho rằng vị trí quán quân của album trên bảng xếp hạng Billboard 200 là thành quả từ "nước đi của một thiên tài anti-marketing (tạm dịch: phản tiếp thị)" và là "một ví dụ điển hình cho dòng nhạc pop chất lượng cao và đáng tự hào."[67] Hơn 374.000 bản album đã được tiêu thụ tại Mỹ tính đến tháng 12 năm 2015.[68]

Tại Úc, album đứng đầu bảng xếp hạng ARIA Albums Chart vào ngày 20 tháng 7 năm 2014 và giữ vững sự có mặt trên bảng xếp hạng trong 20 tuần tiếp theo.[69] Vào năm 2015, album được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc cấp chứng nhận đĩa Bạch kim với 70.000 đơn vị đĩa được tiêu thụ.[70] Tại Canada, album cũng từng dẫn đầu bảng xếp hạng Canadian Albums Chart.[71] Album còn lọt vào top 5 của nhiều bảng xếp hạng album tại một số nước, gồm Na Uy (thứ 2);New Zealand, Thụy Điển và Thụy Sĩ (thứ 4);Đan Mạch (thứ 5).[69] Tại Anh Quốc, 1000 Forms of Fear từng đạt được vị trí cao nhất là thứ năm trên bảng xếp hạng UK Albums Chart và được hiệp hội British Phonographic Industry chứng nhận đĩa Vàng.[72][73] Tính đến tháng 2 năm 2016, 268.949 bản album đã được bán ra tại Anh Quốc.[74] Tính đến tháng 1 năm 2016, hơn 1 triệu bản album đã được bán ra trên toàn cầu.[1]

Danh sách bài hát

1000 Forms of Fear — Phiên bản thường[75]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
1."Chandelier"3:36
2."Big Girls Cry"
  • Kurstin
  • Braide[a]
3:30
3."Burn the Pages"
  • Furler
  • Kurstin
Kurstin3:15
4."Eye of the Needle"
  • Furler
  • Braide
Kurstin4:08
5."Hostage"Kurstin2:56
6."Straight for the Knife"Kurstin3:31
7."Fair Game"
  • Furler
  • Kurstin
Kurstin3:51
8."Elastic Heart"
4:17
9."Free the Animal"
  • Furler
  • Kurstin
  • Jasper Leak
Kurstin4:24
10."Fire Meet Gasoline"
Kurstin4:01
11."Cellophane"
  • Furler
  • Kurstin
Kurstin4:25
12."Dressed in Black"
  • Furler
  • Kurstin
  • Grant Michaels
Kurstin6:40
Tổng thời lượng:48:28
1000 Forms of Fear — Phiên bản cao cấp tại Nhật Bản (các bài hát bổ sung)[76]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
13."Chandelier" (bản piano)Furler
  • Shatkin
  • Kurstin
4:00
14."Chandelier" (Four Tet Remix)Furler
4:30
Tổng thời lượng:57:11
1000 Forms of Fear — Phiên bản cao cấp tại Pháp (các bài hát bổ sung)[77]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
13."Chandelier" (bản piano)Furler
  • Shatkin
  • Kurstin
4:00
14."Chandelier" (Owlle Remix)Furler
  • Shatkin
  • Kurstin
  • France Picoulet (bản remix)
4:18
15."Chandelier" (Four Tet Remix)
  • Furler
  • Shatkin
  • Shatkin
  • Kurstin
  • Hebden (bản remix)
4:30
Tổng thời lượng:1:01:29
1000 Forms of Fear — CD thứ 2 (Ấn bản cao cấp) (các bài hát bổ sung)[78]
STTNhan đềSáng tácSản xuấtThời lượng
13."Chandelier" (bản piano)Furler
  • Shatkin
  • Kurstin
4:00
14."Elastic Heart" (bản piano)Furler
  • Diplo
  • Kurstin[b]
4:10
15."Chandelier" (Four Tet Remix)Furler
  • Shatkin
  • Kurstin
  • Hebden (bản remix)
4:30
16."Chandelier" (Plastic Plates Remix)Furler
  • Shatkin
  • Kurstin
4:23
17."Chandelier" (Clams Casino Remix)
  • Furler
  • Pentz
  • Swanson
  • Diplo
  • Kurstin[b]
5:19
18."Elastic Heart" (Blood Diamonds Remix)Furler
  • Diplo
  • Kurstin[b]
5:07
19."Big Girls Cry" (Odesza Remix)Furler
  • Kurstin
  • Braide[a]
4:21
20."Big Girls Cry" (Bleachers Remix)Furler
  • Kurstin
  • Braide[a]
4:04
Tổng thời lượng:1:24:35

Chú thích

  • ^a biểu thị nhà sản xuất giọng hát
  • ^b biểu thị người đồng sản xuất


Đội ngũ thực hiện

Greg Kurstin (ảnh năm 2017) sản xuất phần lớn các bài hát trong album

Đội ngũ thực hiện được điều chỉnh trên ghi chú trên bìa đĩa 1000 Forms of Fear.[79]

  • Sia – hát chính
  • Greg Kurstin – chơi trống, guitar (bài 1-6, 8-12), mellotron (bài 1-2, 4, 6-10, 12), piano (bài 1-4, 6-11), guitar bass (bài 2-12), nhạc cụ gõ (bài 2, 9), đàn Hammond organ (bài 2, 5), keyboards (3, 11), mộc cầm (bài 7, 9-12), đàn celeste (bài 12), đàn chamberlin (bài 12)
  • Jesse Shatkin – chơi trống (bài 1), keyboards (bài 1)
  • Nick Valensi – guitar (bài 5)

Sản xuất

  • Delbert Bowers – trợ lý phối khí (bài 1-2, 4-5, 8-10, 12)
  • Chris Braide – sản xuất phần giọng hát (2), thu âm giọng hát (bài 2)
  • Julian Burg – kỹ sư bổ sung
  • Diplo – sản xuất (bài 8), lập trình trống (8), kỹ sư (bài 8)
  • Chris Galland – trợ lý phối khí (bài 1-2, 4-5, 8-10, 12)
  • Rob Kleiner – thu âm giọng hát (bài 8)
  • Greg Kurstin – sản xuất (bài 1-7, 9-12), đồng sản xuất (bài 8), thu âm giọng hát (bài 2), kỹ sư, phối khí (bài 3, 6-7, 11)
  • Emily Lazar – hoàn thiện âm thanh
  • Manny Marroquin – phối khí (bài 1-2, 4-5, 8-10, 12)
  • Rich Morales – trợ lý hoàn thiện âm thanh
  • Alex Pasco – kỹ sư bổ sung
  • Jesse Shatkin – sản xuất (bài 1), lập trình âm thanh (bài 1), kỹ sư
  • Sia – giám đốc sản xuất
  • Andrew Swanson – lập trình trống (bài 8), kỹ sư (bài 8)
  • Anita Marisa Boriboon – thiết kế bìa
  • Jonathan Daniel – quản lý
  • Rachel Kurstin – quản lý sản xuất
  • Bob McLynn – quản lý
  • Keith Naftaly – A&R
  • David Russell – quản lý
  • Sia – hình bìa, chỉ đạo nghệ thuật, thiết kế bìa
  • Zöe Zag – phông chữ

Xếp hạng

Chứng nhận và doanh số

Quốc gia Chứng nhận Số đơn vị/doanh số chứng nhận
Úc (ARIA)[118] Bạch kim 70.000^
Canada (Music Canada)[119] Vàng 40.000^
Đan Mạch (IFPI Đan Mạch)[120] Bạch kim 20.000double-dagger
Pháp (SNEP)[121] Bạch kim 100.000*
México (AMPROFON)[122] Vàng 30.000^
Ba Lan (ZPAV)[123] Kim cương 100.000double-dagger
Thụy Điển (GLF)[124] Bạch kim 40.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[125] Bạch kim 300.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[126] Vàng 374.000[68]

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành

Khu vực Ngày phát hành Định dạng Phiên bản Hãng đĩa Tk.
Úc Úc 4 tháng 7 năm 2014 (2014-07-04) Tiêu chuẩn (thường) Inertia [127][128]
New Zealand New Zealand [129][130]
Đức Đức [131][132]
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Anh Quốc 7 tháng 7 năm 2014 (2014-07-07)
  • Monkey Puzzle Records
  • RCA
[133][134]
Hoa Kỳ Hoa Kỳ 8 tháng 7 năm 2014 (2014-07-08) [135][136]
Đức Đức 1 tháng 8 năm 2014 (2014-08-01) Đĩa than
  • RCA
  • Sony
[137]
Toàn cầu 1 tháng 5 năm 2015 (2015-05-01)
  • CD
  • tải kỹ thuật số
Cao cấp
  • Monkey Puzzle
  • RCA
[138]

Xem thêm

Ghi chú

  1. ^ Lời bài hát gốc: "You're twisted up like a slipknot / Tied by a juicehead who just took his T-shot."
  2. ^ Lời bài hát gốc: "But will someone find me swinging from the rafters / From hanging on your every word."
  3. ^ Lời bài hát gốc: "And I've never played a fair game / I've always had the upper hand."
  4. ^ Lời bài hát gốc: Detonate me / Shoot me like a cannonball / Granulate me / Kill me like an animal."

Tham khảo

  1. ^ a b “Sia reclaims the songs Adele, Rihanna and Beyonce rejected to rewrite the pop blueprint” [Sia lấy lại những bài hát mà Adele, Rihanna và Beyoncé từ chối để viết lại một album bản gốc nhạc pop]. News Corp Australia Network. 29 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
  2. ^ Kletnoy, Sergio (7 tháng 7 năm 2014). “Sia Opens Up About Autobiographical Songs and Celebrity Crushes” [Sia tiết lộ về những bài hát liên quan đến bản thân và nhân vật nổi tiếng mà cô yêu thầm]. Elle. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
  3. ^ Vị trí bảng xếp hạng và chứng nhận đĩa thu âm của album We Are Born:
  4. ^ a b Sanders, Sam (8 tháng 7 năm 2014). “A Reluctant Star, Sia Deals With Fame on Her Own” [Một ngôi sao bất đắc dĩ, Sia phải đối mặt với danh tiếng bằng chính sức mình]. NPR Music. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
  5. ^ Vị trí xếp hạng của "Titanium":
  6. ^ Knopper, Steve (21 tháng 4 năm 2014). “How a Song Written by Sia Furler Became a Hit” [Cách thức một bài hát do Sia sáng tác trở thành hit]. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 12 năm 2014.
  7. ^ a b Gallo, Phil (25 tháng 10 năm 2013). “Sia: The Billboard Cover Story” [Sia: Câu chuyện trên bìa tạp chí Billboard]. Billboard. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  8. ^ “Sia confirms release of fifth studio album in March, 2014” [Sia xác nhận việc phát hành album mới vào tháng 3 năm 2014]. Gigwise. 13 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
  9. ^ Renshaw, David (17 tháng 2 năm 2015). “Sia reveals early details of brand new album 'This Is Acting' [Sia tiết lộ một vài chi tiết đầu của album mới 'This Is Acting']. NME. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  10. ^ a b c d e f Zaleski, Marah (8 tháng 7 năm 2014). “Accidental pop songwriter Sia doesn't quite reclaim solo career momentum” [Người viết bài hát nhạc pop tình cờ Sia không muốn lấy lại sự nghiệp ca sĩ đơn ca trên đà phát triển]. The A.V. Club. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  11. ^ Wood, Mikael (2 tháng 6 năm 2014). “Sia smiles through the pain in new song 'Eye of the Needle' [Sia mỉm cười trên nỗi đau của mình trong bài hát mới 'Eye of the Needle']. Los Angeles Times. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 2 năm 2015.
  12. ^ Cragg, Michael (17 tháng 3 năm 2014). “Sia – Chandelier”. The Guardian. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014.
  13. ^ Ehrlich, Brenna (17 tháng 3 năm 2014). “Sia's New YOLO Song 'Chandelier' Could Have Been Rihanna's Next Hit” [Bài hát đơn ca mới của Sia 'Chandelier' trước đây có thể sẽ là hit tiếp theo của Rihanna]. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2015. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  14. ^ a b c d Pareles, Jon (8 tháng 7 năm 2014). “Hitting the Ceiling, then Moving Up” [Chạm đến nóc nhà rồi dần đạt đến thành công]. The New York Times. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  15. ^ a b c Galvin, Annie (6 tháng 7 năm 2014). “Sia: 1000 Forms of Fear | Album Review”. Slant Magazine. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  16. ^ a b c Johnston, Maura (7 tháng 7 năm 2014). “Prolific Hitmaker Sia Reclaims the Spotlight on '1000 Forms of Fear' [Nữ ca sĩ có nhiều hit Sia lấy lại được điểm nhấn với album '1000 Forms of Fear']. Spin. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  17. ^ a b Empire, Kitty (6 tháng 7 năm 2014). “1000 Forms of Fear review – Sia Furler, ace songwriter, reluctant star”. The Observer. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  18. ^ “Sia – Fair Game Lyrics | Genius Lyrics”. Genius. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2018.
  19. ^ a b c Escobedo Shepherd, Julianne (8 tháng 7 năm 2014). “Sia '1000 Forms of Fear' Album Review”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  20. ^ Cliff, Aimee (16 tháng 7 năm 2014). “1000 Forms of Fear – FACT magazine”. Fact. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
  21. ^ Jones, Lucy (17 tháng 7 năm 2014). “How Sia's Personal Resurrection Became Her Greatest Work Yet” [Cách mà tác phẩm cá nhân của Sia giúp cô hồi sinh trở thành tác phẩm tuyệt nhất của cô cho đến nay]. NME. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  22. ^ a b c Gibsone, Harriet (ngày 3 tháng 7 năm 2014). “Sia: 1000 Forms of Fear – review”. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  23. ^ a b c Brown, Helen (9 tháng 7 năm 2014). “Sia, 1000 Forms of Fear, review: 'clever'. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  24. ^ a b c Wood, Mikael (9 tháng 7 năm 2014). “Sia keeps the pain alive on '1000 Forms of Fear' [Sia để cho nỗi đau trỗi dậy trong '1000 Forms of Fear']. Los Angeles Times. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  25. ^ a b c Phares, Heather. “1000 Forms of Fear – Sia”. AllMusic. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  26. ^ Lipshutz, Jason (14 tháng 5 năm 2014). “Sia Announces '1000 Forms of Fear' Release Date & Track List” [Sia công bố ngày phát hành và danh sách bài hát của album '1000 Forms of Fear]. Billboard. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2018.
  27. ^ “Chandelier – Single”. Hoa Kỳ: iTunes Store (Apple Inc). Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2014.
  28. ^ “Sia's 'Chandelier' Music Video Is Hauntingly Beautiful” [Video âm nhạc 'Chandelier' của Sia đẹp một cách ám ảnh]. The Huffington Post. 10 tháng 5 năm 2014. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  29. ^ Furler, Sia (6 tháng 5 năm 2014). Sia – Elastic Heart feat. Shia LaBeouf & Maddie Ziegler (Official Video). SiaVEVO. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  30. ^ Lipshutz, Jason (6 tháng 5 năm 2014). “Sia Taps 'Dance Moms' Star For 'Chandelier' Video: Watch” [Sia chọn ngôi sao của chương trình 'Dance Moms' cho video âm nhạc 'Chandelier']. Billboard. Truy cập 27 tháng 7 năm 2018.
  31. ^ a b “Sia – Chart history” [Sia – Lịch sử xếp hạng]. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
  32. ^ a b “Discography Sia” [Danh sách đĩa nhạc của Sia]. Charts.org.nz. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 4 năm 2016. Truy cập 30 tháng 7 năm 2018.
  33. ^ “Archive Chart” [Bảng xếp hạng lưu trữ]. UK Singles Chart. Truy cập 30 tháng 7 năm 2018.
  34. ^ “ARIA Singles Chart: 16/6/2014”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  35. ^ “NZ Top 40 Singles Chart (ngày 7 tháng 7 năm 2014)”. Recorded Music NZ. Truy cập 28 tháng 7 năm 2018.
  36. ^ “Big Girls Cry (2014)”. Finland: 7digital. 20 tháng 1 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2015.
  37. ^ “Sia: 'Big Girls Cry'. NPR Music. 2 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 4 năm 2015.
  38. ^ Attanasi, Claudia. “SIA – Elastic Heart (RCA)” (bằng tiếng Ý). Radio Airplay SRL. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2015. Truy cập 30 tháng 7 năm 2018.
  39. ^ McRady, Rachel (7 tháng 1 năm 2015). “Sia's 'Elastic Heart' Music Video Features Shia LaBeouf in Underwear, Dance Moms' Maddie Ziegler: Watch Now!” [Video âm nhạc 'Elastic Heart' của Sia với sự góp mặt của Shia LaBeouf trong một bộ đồ màu da và Maddie Ziegler từ chương trình Dance Moms: Xem ngay!]. Us Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2015. Truy cập 30 tháng 7 năm 2018.
  40. ^ Furler, Sia (7 tháng 1 năm 2015). Sia – Elastic Heart feat. Shia LaBeouf & Maddie Ziegler (Official Video). SiaVEVO. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2018.
  41. ^ “GFK Chart-Track”. Irish Singles Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập 30 tháng 7 năm 2018.
  42. ^ “Fire Meet Gasoline: Amazon.de: Musik”. amazon.de (bằng tiếng Đức).
  43. ^ “Eye of the Needle (2014)” (bằng tiếng Hà Lan). Belgium: 7digital. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2015. Truy cập 28 tháng 7 năm 2018.
  44. ^ a b Cragg, Michael (tháng 5 năm 2014). “Sia on taking performance art to the masses” [Sia chất đống nhiều loại nghệ thuật biểu diễn trên sân khấu]. Dazed. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2018.
  45. ^ Sharp, Annette (13 tháng 2 năm 2015). “Shame Sia, for using Maddie Ziegler as a decoy” [Đáng hổ thẹn cho Sia khi phải sử dụng Maddie Ziegler làm người cám dỗ người khác]. The Daily Telegraph. Australia. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2018.
  46. ^ Gordon, Jeremy (19 tháng 5 năm 2014). “Sia Performs 'Chandelier' on Ellen” [Sia biểu diễn 'Chandelier' trên chương trình Ellen]. Pitchfork Media. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2018.
  47. ^ Gibson, Megan (10 tháng 6 năm 2014). “Watch Lena Dunham Dance To Sia's 'Chandelier' on Late Night with Seth Meyers” [Xem màn trình diễn vũ đạo của Lena Dunham với bài hát 'Chandelier' của Sia trên Late Night with Seth Meyers]. Time.
  48. ^ Alexis, Nadeska (4 tháng 7 năm 2014). “Sia Continues To Hide Her Face During 'Jimmy Kimmel' Performance” [Sia tiếp tục che mặt trong màn trình diễn trên chương trình ‘Jimmy Kimmel’]. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2018.
  49. ^ Cho, Diane (29 tháng 7 năm 2014). “Ed Sheeran, Grouplove + Sia's Set List for Episode 2 Leaked!” [Danh sách tiết mục của Ed Sheeran, Grouplove và Sia trong tập 2 của chương trình được tiết lộ!]. VH1. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2018.
  50. ^ Hughes, Hilary (18 tháng 1 năm 2015). “You Don't Have to 'Get' Sia to Love Her on 'SNL' [Bạn không cần phải làm cho Sia yêu chính bản thân mình trên 'SNL']. The Village Voice. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2018.
  51. ^ “Watch Kristen Wiig Perform 'Chandelier' With Sia on the Grammys” [Xem Kristen Wiig biểu diễn 'Chandelier' cùng với Sia tại Giải Grammy]. Slate. 8 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2018.
  52. ^ “1000 Forms of Fear by Sia reviews | Any Decent Music”. www.anydecentmusic.com. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  53. ^ a b “1000 Forms of Fear Reviews”. Metacritic. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2018.
  54. ^ Montgomery, Hugh. “Sia, ZZ Top, Dylan Howe, The Acid, Erno Dohnanyi, Ooioo, album reviews”. The Independent. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  55. ^ Rodman, Sarah (7 tháng 7 năm 2014). “Sia: '1000 Forms of Fear'. The Boston Globe. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  56. ^ Markovitz, Adam (26 tháng 8 năm 2014). “1000 Forms of Fear”. Entertainment Weekly. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  57. ^ Rodman, Sarah (ngày 13 tháng 12 năm 2014). “Sarah Rodman's 2014 best albums picks” [Những album tốt nhất năm 2014 do Sarah Rodman bình chọn]. The Boston Globe. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  58. ^ “Digital Spy's Top Albums Of 2014” [Danh sách album dẫn đầu của năm 2014 của Digital Spy]. Digital Spy. 6 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  59. ^ Pareles, Jon (11 tháng 12 năm 2014). “Jon Pareles's Favorite Albums and Songs of 2014” [Album và bài hát yêu thích của Jon Pareles trong năm 2014]. The New York Times. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  60. ^ Cinquemani, Sal (11 tháng 12 năm 2014). “Th 25 Best Albums of 2014 (page 3)” [25 album xuất sắc nhất của năm 2014]. Slant Magazine. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  61. ^ “Best albums of 2014” [Những album xuất sắc nhất của năm 2014]. The Telegraph. 27 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  62. ^ “20 Best Pop Albums of 2014” [20 Album nhạc pop xuất sắc nhất của năm 2014]. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  63. ^ Mengel, Noel (27 tháng 11 năm 2014). “Brisbane band Sheppard win Best Group at ARIA Awards” [Nhóm nhạc đến từ Brisbane Sheppard đoạt giải Nhóm nhạc xuất sắc nhất tại Giải Âm nhạc ARIA]. The Courier-Mail. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  64. ^ Grebey, James (5 tháng 12 năm 2014). “Grammys 2015 Nominees: Sam Smith, HAIM, Iggy Azalea, and More” [Nghệ sĩ được đề cử tại Giải Grammy năm 2015: Sam Smith, HAIM, Iggy Azalea, vân vân]. Spin. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2018.
  65. ^ Caulfield, Keith (16 tháng 7 năm 2014). “Sia Earns First No. 1 Album On Billboard 200 with '1000 Forms of Fear' [Sia kiếm được vị trí album quán quân trên Billboard 200 với '1000 Forms of Fear']. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  66. ^ Bastown, Clem (17 tháng 7 năm 2014). “Sia's 1000 Forms Of Fear debuts at No 1 in US album charts” [Album 1000 Forms of Feat của Sia ra mắt ở vị trí đầu tiên trên các bảng xếp hạng album tại Mỹ]. The Guardian. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  67. ^ Palathingal, George (17 tháng 7 năm 2014). “Sia Furler's 1000 Forms of Fear goes No.1 in US albums chart” [Album 1000 Forms of Fear của Sia Furler đạt vị trí đầu tiên trên các bảng xếp hạng album tại Mỹ]. The Sydney Morning Herald. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  68. ^ a b “Upcoming Releases”. Hits Daily Double. HITS Digital Ventures. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2015.
  69. ^ a b c "Australiancharts.com – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  70. ^ “ARIA Albums Chart”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. 27 tháng 4 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2018.
  71. ^ a b "Sia Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  72. ^ a b "Sia | Artist | Official Charts" (bằng tiếng Anh). UK Albums Chart. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  73. ^ “Certified Awards Search”. British Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2018.
  74. ^ Jones, Alan (5 tháng 2 năm 2016). “Official Charts Analysis: Bowie scores consecutive No.1 albums” [Thống kê bảng xếp hạng: Điểm số của các album đạt vị trí quán quân liên tiếp]. Music Works.
  75. ^ 1000 Forms of Fear by Sia”. iTunes Store (US). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2018.
  76. ^ “1000 Forms of Fear (Japan Version) by Sia”. iTunes Store (JP). Apple. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2018.
  77. ^ “1000 Forms of Fear: Sia, Andrew Swanson: Amazon.fr: Musique” (bằng tiếng Pháp). Amazon.fr. Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2018.
  78. ^ “1000 Forms of Fear (Deluxe Version) by Sia”. iTunes Store (GB). Truy cập ngày 27 tháng 6 năm 2018.
  79. ^ 1000 Forms of Fear (ghi chú bìa đĩa album). Sia Furler. Monkey Puzzle Records, nhượng quyền bởi RCA Records. 2014.Quản lý CS1: khác (liên kết)
  80. ^ "Austriancharts.at – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  81. ^ "Ultratop.be – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  82. ^ "Ultratop.be – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  83. ^ "Danishcharts.dk – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  84. ^ "Dutchcharts.nl – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  85. ^ "Sia: 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  86. ^ "Lescharts.com – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  87. ^ "Longplay-Chartverfolgung at Musicline" (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Phononet GmbH. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018 – qua Wayback Machine. Ghi chú: Di chuyển ngày lưu trữ mới nhất (còn hoạt động) để có thông tin chính xác về thứ hạng của album.
  88. ^ “GFK Chart-Track”. Irish Singles Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2024.
  89. ^ “Album – Classifica settimanale WK 16 (dal 13-04-2015 al 19-04-2015)” (bằng tiếng Ý). Liên đoàn Công nghiệp âm nhạc Ý. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2018.
  90. ^ “1000 Forms Of Fear” (bằng tiếng Nhật). Oricon. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2015.
  91. ^ “Puesto No. 48 del #Top100MX del...” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Twitter. 30 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2018.
  92. ^ "Charts.nz – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  93. ^ "Norwegiancharts.com – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  94. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  95. ^ "Portuguesecharts.com – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  96. ^ "Spanishcharts.com – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  97. ^ "Swedishcharts.com – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Anh). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  98. ^ "Swisscharts.com – Sia – 1000 Forms of Fear" (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  99. ^ "Sia Chart History (Billboard 200)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  100. ^ “End of Year Charts – ARIA Top 100 Albums 2014”. ARIA Charts. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  101. ^ “Rapports Annuels 2014” (bằng tiếng Pháp). Ultratop (FR). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  102. ^ “SNEP Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 2014”. SNEP. SNEP. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  103. ^ “Årslista Album – År 2013” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Thụy Điển. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2018.
  104. ^ “Swiss Year-End Charts 2014”. Swiss Charts Portal. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  105. ^ “Top 200 Albums Chart Year End 2014”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  106. ^ “End of Year Charts – ARIA Top 100 Albums 2014”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  107. ^ “ultratop.be – Jaaroverzichten 2015” (bằng tiếng Hà Lan). ultratop.be. Hung Medien. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  108. ^ “ultratop.be”. ultratop.be. Truy cập 26 tháng 7 năm 2018.
  109. ^ “ALBUM TOP-100 2015”. Hitlisten (bằng tiếng Đan Mạch). Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  110. ^ “SNEP Charts – End of Year Charts – Top 100 Albums 2015”. SNEP. SNEP. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2018.
  111. ^ “TOP 100 ALBUMES 2015”. promusicae.es. ngày 27 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  112. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2015”. hitparade.ch. 27 tháng 12 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  113. ^ “End of Year Album Chart Top 100 - 2015”. Official Charts Company. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2018.
  114. ^ “Top 200 Albums Chart Year End 2014”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  115. ^ “Album Top-100 2016” (bằng tiếng Đan Mạch). Hitlisten.NU. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  116. ^ “End of Year Album Chart Top 100 – 2016”. Official Charts Company. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  117. ^ “Top 200 Albums Chart Year End 2016”. Billboard. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  118. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2015 Albums” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc.
  119. ^ “Chứng nhận album Canada – Sia – 1000 Forms of Fear” (bằng tiếng Anh). Music Canada.
  120. ^ “Certificeringer” (bằng tiếng Đan Mạch). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế tại Đan Mạch. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2018.
  121. ^ “Chứng nhận album Pháp – Sia – 1000 Forms of Fear” (bằng tiếng Pháp). Syndicat National de l'Édition Phonographique.
  122. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Nhập Sia ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và 1000 Forms of Fear ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  123. ^ “Wyróżnienia – płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2016 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  124. ^ “Veckolista Album - Vecka 1, 8 januari 2016” (bằng tiếng Thụy Điển). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 2 năm 2014.
  125. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Sia – 1000 Forms of Fear” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn album trong phần Format. Chọn Bạch kim' ở phần Certification. Nhập 1000 Forms of Fear vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  126. ^ “American album certifications – Sia – 1000 Forms of Fear”. Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA). Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  127. ^ “Buy 1000 Forms of Fear (BONUS OFFER) Sia, Alternative, CD – Sanity”. Sanity. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 12 năm 2014.
  128. ^ “iTunes – Music – 1000 Forms of Fear”. iTunes Store (AU). Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 8 năm 2014.
  129. ^ “1000 Forms of Fear | CD”. JB Hi-Fi (NZ). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  130. ^ “iTunes – Music – 1000 Forms of Fear”. iTunes Store (NZ). Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2015.
  131. ^ “1000 Forms of Fear [+digital booklet]” (bằng tiếng Đức). Amazon.de. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  132. ^ “1000 Forms of Fear [CD]” (bằng tiếng Đức). Amazon.de. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2018.
  133. ^ “1000 Forms of Fear by Sia”. Amazon.co.uk. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2018.
  134. ^ “1000 Forms of Fear (2014)”. 7digital. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2018.
  135. ^ “Amazon.com: 1000 Forms of Fear: CDs & Vinyl”. Amazon.com. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  136. ^ “1000 Forms of Fear (2014)”. 7digital (US). Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2018.
  137. ^ “1000 Forms of Fear [Vinyl]” (bằng tiếng Đức). Amazon.de. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2018.
  138. ^ Ấn bản cao cấp của 1000 Forms of Fear trên iTunes Store các nước:

Liên kết ngoài

Read other articles:

Glastonbury Festival, England, 2016 There are many notable music festivals in the United Kingdom, covering a wide variety of genres, which are usually run from late May to early September. Some are world-renowned and have been held for many years, including the world's largest greenfield festival, Glastonbury, which has been held since the 1970s. History This section needs expansion. You can help by adding to it. (September 2012) Isle of Wight Festival 1969 Large-scale modern music festivals...

 

Putri Pariwisata Indonesia 2020Tanggal5 September 2020Tempat Studio 2 El John Tv, JakartaTemaThe Spirit Of Indonesia TourismPembawa acaraAbizar DibagjaPenyiaranYouTube Live : El John TV StreamingPeserta33Finalis/Semifinalis10Tampil kembaliSumatera BaratLampungNusa Tenggara BaratKalimantan SelatanSulawesi BaratSulawesi TenggaraSulawesi UtaraGorontaloPapuaPemenangJessy Silana Wongsodihardjo DKI JakartaPersahabatanEfi Aya Firdiansyah Kepulauan RiauKostum Nasional...

 

Division 2 1993-1994 Competizione Division 2 Sport Calcio Edizione 55ª Organizzatore LFP Date dal 24 luglio 1993al 25 maggio 1994 Luogo  Francia Partecipanti 22 Risultati Vincitore  Nizza(4º titolo) Promozioni  Nizza Rennes Bastia Retrocessioni  Rouen Valenciennes Bourges Istres Statistiche Miglior marcatore Yannick Le Saux (27) Incontri disputati 462 Gol segnati 1 031 (2,23 per incontro) Cronologia della competizione 1992...

Disambiguazione – Se stai cercando altri significati, vedi Sferracavallo (disambigua). SferracavallofrazioneSferracavallo – VedutaPanorama del lungomare di Sferracavallo LocalizzazioneStato Italia Regione Sicilia Città metropolitana Palermo Comune Palermo TerritorioCoordinate38°11′58″N 13°16′44″E / 38.199444°N 13.278889°E38.199444; 13.278889 (Sferracavallo)Coordinate: 38°11′58″N 13°16′44″E / 38.199444°N 13.278889...

 

Pour les articles homonymes, voir Commandant (homonymie). Charles Ier d'AngleterreRoi d'Angleterre, commandant en chef de l'Armée Royaliste Un commandant en chef est le chef des forces militaires d'une nation ou d'une partie significative de ces forces. Dans ce dernier cas, cet élément des forces peut être défini par la localisation particulière de ces troupes (par exemple: le commandant en chef des troupes de l'OTAN en Bosnie). Le terme général fait référence à la légitimité, a...

 

Questa voce sull'argomento calciatori brasiliani è solo un abbozzo. Contribuisci a migliorarla secondo le convenzioni di Wikipedia. Segui i suggerimenti del progetto di riferimento. Alan Ruschel Nazionalità  Brasile Altezza 184 cm Peso 73 kg Calcio Ruolo Difensore Squadra  Juventude CarrieraSquadre di club1 2009-2010 Juventude6 (0)[1]2010-2011→  Pelotas3 (0)[2]2011→  Luverdense12 (0)2011-2013 Juventude9 (0)[3]2013-2014 Cha...

Belarusian rabbi RabbiYitzchak Yaacov ReinesYitzchak Yaacov ReinesPersonalBorn(1839-10-27)October 27, 1839Cheshvan 19, 5600 AM (Hebrew calendar)Karolin, Russian Empire (present-day Pinsk, Belarus)DiedAugust 20, 1915(1915-08-20) (aged 75)Elul 10, 5675 AM (Hebrew calendar)Lida, Russian Empire (present-day Belarus)ReligionJudaismChildrenMosesParentRabbi Shlomo Naftali ReinesDenominationOrthodoxPositionFounderOrganizationMizrachiSemikhahVolozhin Yeshiva Yitzchak Yaacov Reines (Hebrew: יצח...

 

此條目需要补充更多来源。 (2021年7月4日)请协助補充多方面可靠来源以改善这篇条目,无法查证的内容可能會因為异议提出而被移除。致使用者:请搜索一下条目的标题(来源搜索:美国众议院 — 网页、新闻、书籍、学术、图像),以检查网络上是否存在该主题的更多可靠来源(判定指引)。 美國眾議院 United States House of Representatives第118届美国国会众议院徽章 众议院旗...

 

شحمة   الإحداثيات 31°49′26″N 34°48′40″E / 31.82386667°N 34.81100556°E / 31.82386667; 34.81100556   تقسيم إداري التقسيم الأعلى قضاء الرملة  رمز جيونيمز 293563  تعديل مصدري - تعديل   31°49′26″N 34°48′40″E / 31.82386667°N 34.81100556°E / 31.82386667; 34.81100556 شحمة هي قرية فلسطينية تقع على بعد 15 ك�...

City in Minnesota, United States City in Minnesota, United StatesSartellCity SealMotto: A Great Place To LiveLocation of Sartellwithin Stearns and Benton Countiesin the state of MinnesotaCoordinates: 45°37′08″N 94°13′14″W / 45.61889°N 94.22056°W / 45.61889; -94.22056CountryUnited StatesStateMinnesotaCountiesStearns, BentonIncorporated1907[1]Government • MayorRyan Fitzthum[2]Area[3] • Total10.42 sq...

 

Intelligence agency of the Czech Republic This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Security Information Service – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (January 2013) (Learn how and when to remove this message) You can help expand this article with text translated from the corresponding article ...

 

Artikel ini sebatang kara, artinya tidak ada artikel lain yang memiliki pranala balik ke halaman ini.Bantulah menambah pranala ke artikel ini dari artikel yang berhubungan atau coba peralatan pencari pranala.Tag ini diberikan pada Oktober 2016. Peringatan Kristenisasi bangsa Rusia ke-1000' (Peringatan Pembaptisan bangsa Rusia ke-1000, bahasa Rusia: 1000-летие крещения Руси) adalah sebuah peringatan yang ditandai dengan acara-acara yang diadakan di USSR dari Mei – Juni 1...

1990 live album by Savage RepublicΝΗΠΙΑΓΩΓΕΙΟΝ: Live in Europe 1988Live album by Savage RepublicReleased1990 (1990)RecordedNovember 1988 (1988-11)GenrePost-punk, experimental rockLength63:32LabelFundamentalProducerSavage RepublicSavage Republic chronology Customs(1989) ΝΗΠΙΑΓΩΓΕΙΟΝ: Live in Europe 1988(1990) Recordings From Live Performance, 1981 - 1983(1992) Professional ratingsReview scoresSourceRatingAllMusic[1] ΝΗΠΙΑΓΩΓΕΙΟ�...

 

  STS-41-D STS-41-Dصورة STS-41-Dشعار المشغل ناسا  الأعضاء هنري هارتسفيلد،  ومايكل كوتس،  ومايك مولان،  وستيفن هولي،  وجوديث ريسنيك،  وتشارلز دي ووكر  تاريخ الإطلاق 30 أغسطس 1984[1]  موقع الإطلاق منصة إطلاق 39a  [لغات أخرى]‏[1]  تاريخ الهبوط 5 سبتمبر 1984...

 

Stem duchy of the medieval Kingdom of Germany This article needs additional citations for verification. Please help improve this article by adding citations to reliable sources. Unsourced material may be challenged and removed.Find sources: Lower Lotharingia – news · newspapers · books · scholar · JSTOR (July 2012) (Learn how and when to remove this message) Duchy of Lower LotharingiaNeder-Lotharingen (Dutch)959–1190 Banner Shield Pink: Lower (N...

نادي غلوبال تأسس عام 2000  الملعب مجمع مدينة سيبو الرياضي  البلد الفلبين  الدوري دوري الفلبين لكرة القدم  الموقع الرسمي الموقع الرسمي  تعديل مصدري - تعديل   نادي غلوبال (بالإنجليزية: Global Football Club)‏ هو نادي كرة قدم فيليبيني تم تشكيله في مارس 2000.[1] أحرز الفريق �...

 

This article has multiple issues. Please help improve it or discuss these issues on the talk page. (Learn how and when to remove these template messages) You can help expand this article with text translated from the corresponding article in French. (February 2021) Click [show] for important translation instructions. View a machine-translated version of the French article. Machine translation, like DeepL or Google Translate, is a useful starting point for translations, but translators mu...

 

Pablo TraperoLahir4 Oktober 1971 (umur 52)San Justo, Buenos Aires, ArgentinaPekerjaanProduser film, penyunting film, sutradara film Penghargaan(2011) Konex Award (en) Chevalier des Arts et des Lettres (en) Pablo Trapero (lahir 4 Oktober 1971) adalah seorang sutradara, penyunting dan produser film Argentina.[1] Karier Film-filmnya dikenal karena menggambarkan kehidupan rakyat biasa, dan bidanya melibatkan beberapa bentuk kritikan sosial terhadap masyarakat modern, seperti film Mu...

Place in San Pedro de Macorís, Dominican RepublicConsuelo SealConsueloConsuelo in the Dominican RepublicCoordinates: 18°33′36″N 69°18′00″W / 18.56000°N 69.30000°W / 18.56000; -69.30000Country Dominican RepublicProvinceSan Pedro de MacorísEstablished as a MunicipalityJuly 1, 1998Area[1] • Total131.52 km2 (50.78 sq mi)Population (2012)[2] • Total60,000 • Density460/km2 (1,200/sq...

 

この項目には暴力的または猟奇的な記述・表現が含まれています。 免責事項もお読みください。 悪の教典Lesson of the Evil著者 貴志祐介発行日 2010年7月30日発行元 文藝春秋ジャンル サイコ・ホラー国 日本言語 日本語形態 上製本ページ数 上巻 440下巻 416公式サイト 文藝春秋特設サイトコード 上巻 ISBN 978-4-16-329380-6下巻 ISBN 978-4-16-329520-6 ウィキポータル 文学 [ ウィ�...